Tiền đề của đạn súng trường xung kích 7,62×39mm

Súng đạn súng trường chiến đấu

Liên Xô sau trận Stalingrad nhận ra phần lớn các cuộc đọ súng giữa bộ binh hai phía đều ở khoảng cách 100 – 300 m hoặc gần hơn. Loại đạn súng trường chiến đấu tiêu chuẩn 7,62x54 mmR của họ hay 7,92x57 mm Mauser của đối phương Đức không phải là loại đạn thích hợp cho súng bộ binh cá nhân trong điều kiện chiến đấu hiện đại (vào lúc đó). Đạn súng trường chiến đấuđường đạn rất tốt, độ chính xác rất cao, tầm bắn sát thương rất xa có thể lên đến 1500 – 2000 m, các khả năng xuyên và phá phần mềm rất tuyệt nhưng quá thừa so với khả năng thị lực chung của người lính.[4] Họ vốn không thể dùng súng trường hay súng máy để bắn mục tiêu người xa đến 700 m hoặc hơn mà không có thiết bị ngắm hỗ trợ, đơn giản là không nhìn thấy mục tiêu hoặc mục tiêu quá nhỏ. Thêm vào đó, sức giật của súng bắn đạn súng trường chiến đấu là rất mạnh. Các loại súng máy để đảm bảo độ ổn định, phải nặng đến khoảng 8 – 10 kg hoặc hơn, nòng dày nặng, chỉ có thể bắn loạt, và phải được hỗ trợ bởi chân súng hoặc giá súng, không thể bắn khi đang di chuyển; nhiều súng có đầu nòng bù giật, nhưng độ tản mát của loạt bắn vẫn rất cao do súng quá giật. Các súng trường chiến đấu có khả năng bắn liên thanh như AVS-36, AVT-40 hay SG-42 đều thất bại chủ yếu ở khả năng bắn liên thanh, cũng do dùng đạn súng trường chiến đấu. Các súng trường chiến đấu bán tự động (như SVT-40, G-43, Garand M1) hoặc lên đạn thủ công (như Mosin-Nagant M91/30 hay Mauser Kar 98k) thì đơn giản là quá giật ảnh hưởng đến tốc độ xạ kích của xạ thủ, những người hơi yếu không giữ nổi khẩu súng khi bắn.

Súng đạn súng ngắn liên thanh

Khi khoa học chiến tranh bị mắc kẹt trong những chiến hào vùng Verdun, người ta không có một thứ vũ khí cá nhân nào có tính năng xung phong cho những người lính tấn công vào đội hình đối phương trong các chiến hào kiên cố dày đặc súng máy. Thay vào đó, các bên tham chiến cố gắng chế tạo ra những cỗ siêu trọng pháo đắt tiền vô dụng. Thế chiến I kết thúc với sự lên ngôi của súng ngắn liên thanh (Tiếng Đức – Maschinen Pistolen, tiếng Nga – Pistolet Pulemyot). Súng ngắn liên thanh được hoàn thiện trong suốt những năm sau chiến tranh, trở thành một thành phần cơ bản của đội hình xung hỏa lực bộ binh, mang chức năng "xung phong". Súng bắn đạn súng ngắn, đường đạn ngắn, độ chính xác không cao, tầm bắn sát thương rất gần, các khả năng xuyên và phá phần mềm kém. Nhưng điều làm nên giá trị của cả súng và đạn là chúng có độ giật ít, có thể bắn liên thanh khi di chuyển, đạn nhẹ nên xạ thủ mang được nhiều. Các loại súng ngắn liên thanh nhanh chóng được thiết kế chế tạo và đưa vào trang bị, bắt đầu bằng khẩu MP-18 của Đức năm 1918. Súng kết hợp với súng trường chiến đấu tạo ra bộ hỏa khí xung lực, và các quốc gia bước vào Thế chiến II năm 1939. Thế nhưng sau một thời gian, việc đạn súng ngắn quá yếu kết hợp với đạn súng trường chiến đấu quá mạnh tạo nên sự bất hợp lý. Trang bị lúc đó của một tiểu đội bộ binh, trừ súng máy trợ chiến, có từ một đến hai súng ngắn liên thanh, còn lại là súng trường. Nếu tăng khả năng "xung phong" hơn nữa thì giảm khả năng "súng trường" và ngược lại. Trong khi súng ngắn liên thanh dùng để xung phong có tầm bắn và hỏa lực quá tệ, nhưng có thể bắn liên thanh và chỉ thích hợp chiến đấu tâmg gần, thì súng trường chiến đấu lại có tầm bắn và hỏa lực quá tốt, nhưng tốc độ bắn quá chậm, súng quá giật chỉ thích hợp bắn mục tiêu cự li xa. Ngay cả khẩu PPSh-41 của Liên Xô, sử dụng đạn 7,62x25 mmTT, có tầm bắn hiệu quả lên đến 200 m, tốt nhất thời bấy giờ, hỏa lực khá mạnh so với hầu hết các súng ngắn liên thanh cùng thời, đặc biệt là hộp tiếp đạn trống 71 viên chứa được nhiều đạn, cũng chưa làm cho người Nga hài lòng.

Tiền đề của đạn 7,62x39 mm M43

Xem thêm: "Fedorov Avtomat"

Giải pháp bật ra khi Vladimir Grigoryevich Fedorov thiết kế khẩu súng trường xung kích đầu tiên trên thế giới: "Fedorov Avtomat", nguyên mẫu đầu tiên ra đời năm 1911.[5]

Súng ban đầu nặng khoảng 4 kg, sử dụng máy lùi có hãm đòn bẩy, bắn liên thanh, dùng đạn 7,62x54 mmR, nạp đạn bằng kẹp. Mặc dù vẫn là dáng súng trường cơ bản nhưng đã có tay cầm trước hộp tiếp đạn. Sau một thời gian đánh giá loại súng của mình, Fedorov cuối cùng đã nhận ra đạn súng trường chiến đấu tiêu chuẩn không thích hợp cho tính năng bắn liên thanh và bắn khi di chuyển, vì súng nhẹ trong khi đạn quá mạnh, không thể giải quyết bằng cách tăng trọng lượng súng. Năm 1913, Fedorov thiết kế loại đạn mới 6,5mm. Đạn nặng 8,5 g với sơ tốc 860 m/s, động năng 3140 J thấp hơn nhiều so với đạn 7,62x54 mmR.[5] Các thử nghiệm đều khả quan và báo cáo từ chiến trường gửi về yêu cầu cao hơn cho súng như dùng hộp tiếp đạn rời, súng chứa nhiều đạn hơn,… Việc hội đồng súng trường yêu cầu chuyển sang dùng đạn 6,5x50 mmSR Arisaka của Nhật Bản trong phiên bản cuối cùng của súng do hai lý do: đạn 6,5 mm của Nhật phù hợp với chức năng bắn loạt ứng dụng hơn, và quan trọng nhất là mua đạn từ nguồn cung cấp ngoài đơn giản hơn nhiều lần so với thiết kế chế tạo hệ thống làm đạn trong nước lúc đó. 6,5x50 mmSR lúc đó đang được nước Anh đồng minh gia công cho Nhật Bản, tuy là loại đạn dùng cho súng trường chiến đấu nhưng yếu hơn nhiều so với các đạn súng trường tiêu chuẩn cùng thời điểm như 7,62x54 mmR, 7,92x57 mm Mauser, hay .30-06 (7,62x63 mm). Đạn nặng khoảng 9 g, sơ tốc 720 m/s với động năng ban đầu là 2330 J. Đạn 6,5x50 mmSR Arisaka tương đương đạn 6,5 mm của Fedorov về khả năng xạ kích tầm xa, độ giật thấp hơn làm loạt bắn dễ kiểm soát hơn. Tuy nhiên đạn không thích hợp cho súng trường xung kích ở chỗ đây là loại đạn có gờ móc đạn cổ điển, vì vậy việc thiết kế hộp tiếp đạn cho súng bắn tự động không hề đơn giản; nếu không được thiết kế hợp lý, các hàng đạn trong hộp tiếp đạn sẽ có khả năng mắc vào nhau gây kẹt. Fedorov thay đổi cỡ đạn cho súng thành 6,5x50 mmSR. Phiên bản mới sau khi thử nghiệm, được sản xuất với số lượng nhỏ và mang ra chiến trường thử lửa. Một lần nữa, các báo cáo gửi về tiếp tục cho thấy sự đúng đắn của súng trường xung kích Fedorov. Với loại đạn mới, khẩu vẫn súng đảm bảo khả năng bắn điểm xạ mục tiêu xa tốt như súng trường chiến đấu đến cự li trung bình, trong khi khả năng bắn liên thanh từng loạt khi di chuyển (vốn kém hơn các mẫu súng trường xung kích về sau này, nhưng lúc đó là ưu việt) đã tăng lên vì phiên bản súng đạn mới giật yếu hơn. Khẩu súng đã tạo nên ưu thế cho các xạ thủ Hồng Quân trước bộ binhkỵ binh Bạch Vệ, vốn trang bị Mosin-Nagant M-91 phải lên đạn thủ công.

Việc súng bộ binh chủ lực chuyển sang đạn 6,5 mm của Fedorov, ít nhất là đưa vào trang bị súng trường xung kích dùng đạn 6,5 mm thay thế súng trường chiến đấu, lúc đó còn quá mới mẻ, không ai nghĩ rằng 6,5 mm của Fedorov sẽ là đạn chủ lực, chứ không phải là các loại đạn mạnh mẽ như 7,62x54 mmR hay 7,92x57 mm Mauser. Đế quốc Nga vốn nghèo và kiệt quệ ngay trong Thế chiến I, không đủ khả năng thay thế toàn bộ súng, đạn súng trường chiến đấu để bứt phá khỏi thời kỳ chiến tranh hầm hào, tạo ra một cuộc cách mạng kỹ thuật quân sự. Sau một loạt các biến động chính trị và quân sự, Liên bang Sô-viết non trẻ cũng không đủ khả năng thực hiện điều đó, khẩu súng đang còn dang dở không có cơ hội phát triển, và người Nga vẫn tiếp tục sử dụng Mosin-Nagant M-91 và sau này là Mosin-Nagant M-91/30 và các súng trường chiến đấu khác dùng đạn 7,62x54 mmR.

Một trong các nguyên nhân thất bại của súng, chính xác là đạn 6,5 mm của Fedorov, là "sự bảo thủ". Nguyên nhân này cũng dẫn đến "cái chết" của súng trường xung kích TKB-408 do German A. Korobov thiết kế vào năm 1946. Súng có thiết kế khóa nòng sau cò (Bullpup) rất ưu việt, về sau được áp dụng trên các súng trường xung kích như GIAT FAMAS, Enfield SA80Steyr AUG. TKB-408 thua AK-47 năm 1947 là do kiểu khóa nòng sau cò quá mới mẻ, đi trước thời đại, và không được tin tưởng, chứ không phải ở tính năng kỹ chiến thuật. Phiên bản TKB-022 về sau này (thập niên 60) mặc dù tính năng gọn nhẹ vượt trội, cũng thất bại trước AKM ở chung một lý do.

Tuy nhiên, người Nga vẫn chưa chịu từ bỏ. Họ đã có trong tay khái niệm đầu tiên về cái gọi là súng đạn "Avtomat" - Súng trường xung kích. Đó là một bộ súng - đạn xung lực chủ lực của quân đội; không phải súng ngắn liên thanh súng nặng nòng dài hay súng trường chiến đấu có thể bắn tự động; phải có khả năng xạ kích phát một chính xác đạt đến cự li giới hạn của binh sĩ; phải có khả năng bắn ứng dụng khi xung phong dựa vào độ giật kiểm soát được của loạt bắn; có thể chọn chế độ bắn; phải mang được nhiều đạn; phải có các khả năng xuyên và phá tốt; phải đủ gọn nhẹ, tiện lợi cho người lính khi vận động chiến đấu trên chiến trường; phải rẻ, đơn giản, dễ dàng chế tạo với số lượng lớn đáp ứng nhu cầu chiến tranh trong mọi điều kiện, thậm chí là cơ sở hạ tầng, công nghệ tồi tàn,...

Các kỹ sư Nicholai M. Elizarov, Boris V. SeminMikhail T. Kalashnikov, trải qua hơn một thập niên nghiên cứu và phát triển, cuối cùng đã cho ra một bộ súng - đạn súng trường xung kích hoàn chỉnh: AK-47 - 7,62x39 mm M43. Bộ súng - đạn xung lực kiểu mới đã thay thế thành công bộ xung lực hai thành phần cũ, trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra một loạt các thay đổi về phiên chế trang bị xung hỏa lực bộ binh, trở thành một cuộc cách mạng về quân sự trên toàn thế giới, thay đổi vĩnh viễn học thuyết chiến tranh hiện đại.